MENU
Để đào tạo theo định hướng nghề nghiệp-ứng dụng chúng ta cần tiếp cận, hiểu và áp dụng một cách mềm dẻo để phù hợp với thực trạng của trường. Qua thực tiễn đào tạo cần rút ra những kinh nghiệm để ngày càng phù hợp hơn nhằm đem lại kết quả tốt nhất. Đó cũng là điều kiện sống còn của một môi trường giáo dục. Với những yêu cầu đó bài tham luận này nhằm mục đích phân tích, mỗ xẻ những kết quả và đưa ra những kinh nghiệm qua việc giảng dạy theo định hướng nghề nghiệp-ứng dụng (POHE) đối với học phần hệ quản trị cơ sở dữ liệu (CSDL) trong học kỳ 1 năm học 2016-2017 mà Tác giả đã thực hiện.
Qua thực tiễn giảng dạy cũng như sự đón nhận của sinh viên trong việc đào tạo theo định hướng ứng dụng(POHE), sau khi giảng dạy môn Hệ quản trị CSDL tại trường Đại học Thái Bình Dương, Tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp một số kinh nghiệm đã đúc kết được. Vì chỉ mới thực hiện trong một học kỳ, nên những trao đổi này có thể mới là cảm nhận chưa thật sự được kiểm nghiệm, nên rất có thể chưa chính xác, mong nhận được sự góp ý, trao đổi thêm của đồng nghiệp để việc giảng dạy ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
Nhiều giảng viên rất coi nhẹ việc giới thiệu môn học mà tập trung ngay vào bài học. Nhưng thực ra giới thiệu môn học rõ ràng, cuốn hút đóng vai trò rất qua trọng trong việc xác định mục tiêu cũng như tạo hứng thú trong việc tiếp nhận chủ động của sinh viên đối với môn học.
Đối với môn hệ quản trị CSDL cần giới thiệu rõ một số đặc tính sau:
- Cho phép quản trị một hệ CSDL lớn, có tốc độ xử lý dữ liệu nhanh đáp ứng yêu cầu về thời gian.
- Cho phép nhiều người cùng khai thác trong một thời điểm đối với một CSDL và toàn bộ quản trị CSDL (lên đến vài chục ngàn user).
- Có hệ thống phân quyền bảo mật tương thích với hệ thống bảo mật của công nghệ NT (Network Technology), tích hợp với hệ thống bảo mật củaWindows NT hoặc sử dụng hệ thống bảo vệ độc lập của SQL Server.
- Hỗ trợ trong việc triển khai CSDL phân tán và phát triển ứng dụng trên Internet
- Cho phép lập trình kết nối với nhiều ngôn ngữ lập trình khác dùng xây dựng các ứng dụng đặc thù (Visual Basic, C#, C++, ASP, ASP.NET, XML,...).
- Sử dụng câu lệnh truy vấn dữ liệu Transaction-SQL (Access là SQL, Oracle là PL/SQL).
…
Qua cách giới thiệu đó sinh viên đã hình dung được phần nào về học phần và trả lời được câu hỏi: Tại sao mình phải học môn này?. Từ đó có hứng thú học hơn.
Giảng viên, sinh viên có thể tìm hiểu yêu cầu nghề nghiệp qua nhiều kênh thông tin như: thông tin tuyển dụng, bạn bè, người thân đang làm trong ngành, sản phẩm thực tế để từ đó đưa ra yêu cầu phù hợp trong giảng dạy, học tập. Qua cách tiếp cận đó sinh viên ra trường có thể làm được ngay, thể đáp ứng được thị trường lao động, có thể giảm bớt rào cản kết hợp với doanh nghiệp trong những năm đầu.
Bên cạnh việc giảng dạy những kiên thức chung thì cần đặt cho sinh viên những năng lực rõ ràng cho học phần. Cụ thể:
Sinh viên phải tìm hiểu một số CSDL ở quy mô nhỏ như: quản lý điểm sinh viên, quản lý nhập hàng, quản lý xuất hàng,…
Đối với những CSDL đó sinh viên phải biết:
Những năng lực cần thiết trên được thể hiện qua việc triển khai Đồ án 1 trong chương trình đào tạo.[1]
Sinh viên của Trường chưa có ý thức nhiều trong việc tự nghiên cứu, xác định nghề nghiệp nên cần phải có những ví dụ cụ thể tình huống nghề nghiệp ngay trong bài học, hoạt động nhóm, phát triển mở rộng từ đó làm tăng khả năng tham gia vận động, kỹ năng xử lý tình huống. Ngoài ra cần phải đưa ra những yêu cầu phẩm chất nghề nghiệp chính là kết quả, mục tiêu của học phần. Khi học xong sinh viên phải đạt những phẩm chất sau:
Bên cạnh tìm hiểu các yêu cầu tuyển dụng, các sản phẩm, chương trình thực tế, trên mạng,…Sinh viên cần được:
Cần phải nhìn nhận phương pháp sư phạm trong POHE một cách linh hoạt để việc tiếp nhận kiến thức của sinh viên không còn thụ động như các phương pháp truyền thống.Đối với môn hệ quản trị CSDL nên sử dụng phương pháp trực quan, giải thích, minh họa, phân nhóm và thực hành luyện tập làm chủ đạo kết hợp với một số phương pháp như: thuyết giảng, vấn đáp, tự học, nghiên cứu, …,
Từ những cách vận dụng ở trên thì sinh viên của đã có những chuyển biến tích cực như: tham gia học đầy đủ hơn, thích thú hơn đặc biệt là phát huy được tinh thần học hỏi cũng như là giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
Có khả quan trong việc áp dụng đào tạo theo POHE nhưng phải vận dụng linh hoạt để phù hợp với thực trạng của Trường, của Ngành.
Cần phải đánh giá chính xác khả năng của sinh viên để đưa ra các chuyên ngành hẹp cũng như tình huống nghề nghiệp phù hợp.
Cần nhiều thời gian hơn cho các học phần giảng dạy theo POHE vì các hoạt động nhóm, hoạt động nghề nghiệp của sinh viên.
Nên giảng dạy theo POHE một số học phần, modul thí điểm từ đó rút ra kinh nghiệm để việc giảng dạy hiệu quả hơn.
Sinh viên cần được thực hành tối đa để giải quyết các vấn đề, lỗi phát sinh khi xây dựng cơ sở dữ liệu
Cần phân rõ chuyên ngành hẹp từ học kỳ thứ 4 để sinh viên tích lũy được kinh nghiệm nghề nghiệp rõ ràng.
Thạc sĩ Lê Hữu Tuấn
Trường Đại học Thái Bình Dương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dự án phát triển giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng POHE – PGS.TS Phạm Thị Hương, TS. Lê Thái Hưng
[1]Xây dựng và triển khai đối với khóa 2016